๑๑۩۞۩๑๑.:: wWw.11a12phuongson.Tk vô đối ๑๑۩۞۩๑๑
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.


๑๑۩۞۩๑๑.::Diễn Đàn 11a12 THPT phương Sơn๑๑۩۞۩๑๑
 
Trang ChínhLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập

 

 Hầu trời ( Tản Đà )

Go down 
Tác giảThông điệp
whereismylove
Thành Viên Danh Dự
Thành Viên Danh Dự
whereismylove


Join date : 08/04/2010
Age : 31
Đến từ : 1 nơi rất xa... rất xa.....

Hầu trời ( Tản Đà ) Empty
Bài gửiTiêu đề: Hầu trời ( Tản Đà )   Hầu trời ( Tản Đà ) I_icon_minitimeThu Apr 08, 2010 4:56 pm

I. Tìm hiểu chung
1. Tiểu dẫn
a/Tác giả:
Tản Đà (1889-1939)
Tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu
Quê làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây; nay là huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây. quê ông nằm ở bờ sông Đà, gần núi Tản Viên, vì thế ông lấy bút danh Tản Đà.
+Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống
Khoa bảng. Theo con đường cử nghiệp, nhưng hai lần thi Hương ông đều không đỗ. Ông chuyển sang viết báo, viết văn và là người đầu tiên ở nước ta sống bằng nghề viết văn xuất bản.
+Ông có ý tưởng cải cách xã hội theo con đường hợp pháp, dùng báo chí làm phương tiện
+Ông sống phóng túng, từng đeo “túi thơ” đi khắp ba kì Bắc, Trung, Nam. Từng nếm đủ mùi cay đắng, vinh hạnh, tuy nhiên ông vẫn giữ được cốt cách nhà Nho và phẩm chất trong sạch.
b/Sự nghiệp:
+Thơ:
Khối tình con I (1916)
Khối tình con II (1918)
Khối tình con III (1932)
Còn chơi (1921)
Thơ Tản Đà (1925)
+Văn xuôi:
Giấc mộng lớn (1928)
Giấc mộng con I (1916)
Giấc mộng con II (1932)
Tản Đà văn tập (1932)
+Chú giải: Truyện Kiều
+Dịch: Kinh thi, thơ Đường, Liêu Trai chí dị
+Soạn: Tây Thi (tuồng), Thiên Thai (tuồng)
ông đạt thành tựu trên nhiều lĩnh vực, nhưng thực sự nổi bật về thơ.
Thơ ông là điệu tâm hồn mới mẻ với cái tôi lãng mạn bay bổng; vừa hài hoà, phóng khoáng, ngông nghênh lại vừa cảm thương ưu ái.
“Thơ ông là gạch nối của hai thời đại thi ca”
Ông là “người dạo bản đàn mở đầu cho cuộc hoà nhạc tân kì đương sắp sửa” (Hoài Thanh).
Ông là “người báo tin xuân” cho phong trào Thơ mới 1932-1945.
Xuất xứ: Hầu trời in trong tập còn chơi (1921)
2.Văn bản
Bố cục: bốn đoạn
Đoạn I:
Từ đầu đến câu 20 “Trời đã sai gọi thời phải lên”
(Lí do và thời điểm được lên đọc thơ hầu trời)
Đoạn II:
Tiếp đó ...đến câu 68 “Sông Đà núi Tản nước Nam Việt” (Cuộc đọc thơ cho trời và chư tiên giữa chốn thiên môn đế khuyết)
Đoạn III:
Tiếp đó đến ...câu 98
“Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết”
Tâm tình với trời về tình cảnh khốn khó của nghề viết văn và thực hành thiên lương ở hạ giới.
Đoạn IV: còn lại
Phút chia li đầy xúc động giữa nhà thơ với trời và chư tiên.
+Bố cục mạch lạc, rõ ràng.
+Mạch chính là kể chuyện theo trình tự thời gian, giúp người đọc dễ theo dõi. Xen vào kể chuyện là những chi tiết được hư cấu, tưởng tượng kích thích trí tò mò của người đọc.
+Âm điệu bài thơ cũng có sự chuyển biến linh hoạt; âm điệu gắn liền với mạch truyện. Đoạn I và II, vui, sôi nổi, hào hứng. Đoạn III: nhân vật trữ tình thể hiện sự xót xa, có xen vào sự an ủi vỗ về của trời.
Đoạn còn lại: âm điệu thơ có vẻ ngậm ngùi.
*Chủ đề:
Miêu tả lí do và thời điểm lên đọc thơ hầu trời để bộc lộ cái tôi thật tài hoa, phóng túng và khao khát được khẳng định giữa cuộc đời. Đồng thời trần tình tình cảnh khốn khổ của nghề viết văn và thực hành “Thiên lương” ở hạ giới, phút lưu luyến tiễn biệt khi trở về.
II. Đọc hiểu văn bản
1. Tác giả lên hầu trời
-Trăng sáng, canh ba (rất khuya)
-Nhà thơ không ngủ được, thức bên ngọn đèn xanh, vắt chân chữ ngũ...Tâm trạng buồn, ngồi dậy đun nước, ngâm ngợi thơ văn, ngắm trăng trên sân nhà.
-Hai cô tiên xuất hiện, cùng cười, nói: trời đang mắng vì người đọc thơ mất giấc ngủ của trời, trời sai lên đọc thơ cho trời nghe!
-Trời đã sai gọi buộc phải lên!
“Đêm qua chẳng biết có hay không
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ màng
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!
Thật được lên tiên - sướng lạ lùng.
Cách kể tự nhiên, nhân vật trữ tình như giãi bày, kể lại một câu chuyện có thật! (một sự thoả thuận ngầm với người đọc).
Cách đọc thơ:
“Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà”
Giọng đọc vừa có âm vực (cao), vừa có trường độ (dài), vọng lên cả sông Ngân Hà trên trời.
“Ước mãi bây giờ mới gặp tiên
Người tiên nghe tiếng lại như quen”
Câu thứ nhất nội dung bình thường, nhưng đến câu thứ hai, thật lạ: quen cả với tiên! nhà thơ cũng là vị “trích tiên” - tiên bị đày xuống hạ giới. Việc lên đọc thơ hầu trời cũng là việc bất đăc dĩ: “Trời đã sai gọi thời phải lên”
Có chút gì đó ngông nghênh, kiêu bạc! tự nâng mình lên trên thiên hạ, trời cũng phải nể, phải sai gọi lên đọc thơ hầu trời!
2. Tác giả đọc thơ hầu trời
-Theo lời kể của nhân vật trữ tình, không gian, cảnh tiên như hiện ra:
“Đường mây” rộng mở
“Cửa son đỏ chói” -> tạo vẻ rực rỡ
“Thiên môn đế khuyết” -> nơi ở của vua, vẻ sang trọng. “Ghế bành như tuyết vân như mây” -> tạo vẻ quý phái.
Không gian bao la, sang trọng, quý phái của trời. nhưng không phải ai cũng được lên đọc thơ cho trời nghe. Cách miêu tả làm nổi bật cái ngông của nhân vật trữ tình.
+ “Vừa trông thấy trời sụp xuống lạy”-vào nơi thiên môn đế khuyết phải như thế!
+Được mời ngồi: “truyền cho văn sĩ ngồi chơi đấy”, đọc thơ say sưa “đắc ý đọc đã thích” (có cảm hứng, càng đọc càng hay) “Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi” (hài hước), “văn dài hơi tốt ran cung mây”.
+Trời khen: “trời nghe, trời cũng lấy làm hay”. Trời tán thưởng “Trời nghe trời cũng bật buồn cười”. Trời khẳng định cái tài của người đọc thơ:
“ Trời lại phê cho văn thật tuyệt
Văn trần như thế chắc có ít”
+Các chư tiên:
“ Tâm như nở dạ, cơ lè lưỡi
Hằng Nga, Chúc nữ trau đôi mày
Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng
Đọc xong một bài cùng vỗ tay”
Nở dạ: mở mang nhận thức được nhiều cái hay.
Lè lưỡi: văn hay làm người nghe đến bất ngờ! “Chau đôi mày” văn hay làm người nghe phải suy nghĩ tưởng tượng. “Lắng tai đứng” đứng ngây ra để nghe. Tác giả viết tiếp hai câu thơ:
“Chư tiên ao ước tranh nhau dặn
Anh gánh lên đây bán chợ trời”
Những phản ứng về mặt tâm lí của trời và các vị chư tiên đan xen vào nhau làm cho cảnh đọc thơ diễn ra thật sôi nổi, hào hứng, linh hoạt...
Người đọc thơ hay mà tâm lí người nghe thơ cũng thấy hay! khiến người đọc bài thơ này cũng như bị cuốn hút vào câu chuyện đọc thơ ấy, cũng cảm thấy “đắc ý” “sướng lạ lùng”!
3.Thái độ của tác giả qua việc đọc thơ hầu trời
+Thể hiện quan niệm về tài năng (tài thơ)
Nhà thơ nói được nhiều tài năng của mình một cách tự nhiên, qua câu chuyện tưởng tượng Hầu trời đọc th
+“Văn dài hơi tốt ran cung mây
Trời nghe, trời cũng lấy làm hay”
+ “Văn đã giàu thay, lại lắm lối”
+ “Trời lại phê cho văn thật tuyệt
Văn trần như thế chắc có ít
Nhời văn chuốt đẹp như sao băng
Khí văn hùng mạnh như mây chuyển
Êm như gió thoảng, tinh như sương
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết”
***Các nhà Nho tài tử thường khoe tài (thị tài), tài năng mà họ nói đến là tài Kinh bang tế thế!
Tản Đà khoe tài thơ, nói thẳng ra “hay” “thật tuyệt” mà lại nói với trời.
Tự khen mình (vì xưa nay ai thấy trời nói đâu?!), tự phô diễn tài năng của mình.
Trời khen: là sự khẳng định có sức nặng, không thể phủ định tài năng của tác giả - lối khẳng định rất ngông của văn sĩ hạ giới, vị trích tiên - nhà thơ.
*Bài thơ thể hiện ý thức cá nhân của Tản Đà về cái tôi tài năng của mình!
+Quan niệm của Tản Đà về nghề văn:
Văn chương là một nghề, nghề kiếm sống. Có kẻ bán, người mua, có chuyện thuê, mượn; đắt rẻ...
vốn, lãi... Quả là bao nhiêu chuyện hành nghề văn chương! một quan niệm mới mẻ lúc bấy giờ.
+“Nhờ trời văn con còn bán được”
+ “Anh gánh lên đây bán chợ trời”
+ “Vốn liếng còn một bụng văn đó”
+ “Giấy người, mực người, thuê người in
Mướn cửa hàng người bán phường phố
Văn chương hạ giới rẻ như bèo
Kiếm được đồng lãi thực là khó”
Khát vọng ý thức sáng tạo, trong nghề văn:
Người viết văn phải có nhận thức phong phú, phải viết được nhiều thể loại: thơ, truyện, văn, triết lí, dịch thuật (đa dạng về thể loại).
Tấu trình với trời về nguồn gốc của mình:
“Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn
Quê ở á Châu về địa cầu
Sông Đà núi Tản nước Nam Việt”
So với các danh sĩ khác:
“ Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên Hạ hà nhân khấp Tố Như”
(Nguyễn Du - Đọc Tiểu Thanh kí)
Hoặc:
“Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng”
(Nguyễn Công Trứ – Bài ca ngất ngưởng)
Hay:
“Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi”
(Hồ Xuân Hương – Mời trầu)
Tản Đà giới thiệu về mình, với nét riêng:
+Tách tên, họ.
+Nói rõ quê quán, châu lục, hành tinh.
Nói rõ để trời hiểu Nguyễn Khắc Hiếu (ý cái tôi cá nhân) và thể hiện lòng tự tôn , tự hào về dân tộc mình “sông Đà núi Tản nước Nam Việt” ...
*Tiểu kết:
Cái tôi cá nhân biểu hiện trong bài thơ:
+Hư cấu chuyện hầu trời để giãi bày cảm xúc cá phóng khoáng của con người cá nhân.
+Nhà thơ nói được nhiều về tài năng của mình.
+Thể hiện quan niệm về nghề văn
+Cách tấu trình với trời về nguồn gốc của mình.
**Cảm hứng lãng mạn và hiện thực đan xen nhau, trong bài thơ. (hiện thực: đoạn nhà thơ kể về cuộc sống của chính mình), khẳng định vị trí thơ Tản Đà là “gạch nối của hai thời đại thi ca”
*Nghệ thuật:
*Lối kể dân giã, giọng điệu khôi hài
Có nhiều câu chuyện về người trần gặp tiên, nhưng Hầu trời vẫn có cái mới, cái lạ cuốn hút người đọc, câu chuyện trời nghe thơ!
+Nhân vật trữ tình với trời và các chư tiên, có quan hệ suồng sã, thân mật. (Chư tiên gọi nhà thơ bằng anh!
+Người trời biểu hiện cảm xúc như con người: lè lưỡi, chau đôi mày, lắng tai đứng, vỗ tay, bật buồn cười, tranh nhau dặn...
*Cách dùng từ có nhiều thú vị:
Từ dùng nôm na như văn nói, phù hợp với sự hư cấu của nhà thơ. “Văn dài hơi tốt ran cung mây” “văn đã giàu thay, lại lắm lời” “Trời nghe trời cũng bật buồn cười” “Kiếm được thời ít, tiêu thì nhiều”
“lo ăn lo mặc hết ngày tháng”
*Nhân vật trữ tình bộc lộ ý thức cá nhân, tạo nên cái “ngông” riêng của Tản Đà:
+Tự cho mình văn hay đến mức trời cũng phải tán thưởng.
+Tự ý thức, không có ai đáng là kẻ tri âm với mình ngoài trời và các chư tiên! Những áng văn của mình chỉ có trời mới hiểu và phê bình được.
+Tự xem mình là một “Trích tiên” bị đày xuống hạ giới vì tội ngông!
+Nhận mình là người nhà trời, trời sai xuống để thực hành “thiên lương”
[Theo Tản Đà, con người phải có “thiên lương” gồm: “lương tri” (khả năng nhận thức cuộc sống);
“lương năng” (khả năng làm việc tốt); “lương tâm” (đạo đức tốt)]
III. Củng cố
-Cái “ngông”
Thể hiện ý thức cao về tài năng của bản thân, nhất là tài năng về văn chương. Cái “ngông” này góp phần làm nên cái mới, cái hay của bài thơ.
-Tính chất “giao thời” trong nghệ thuật thơ Tản Đà:
tính chất bình dân trong lối kể chuyện; giọng điệu khôi hài; cách dùng từ để làm nổi bật cái tôi tài hoa
những nét mới về thi pháp so với thơ ca trung đại.
*Luyện tập
1/Thái độ “Ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ và cái “ngông” của Tản Đà
-Nét giống nhau:
Cả hai tác giả đều ý thức rất cao về tài năng bản thân, coi mình vượt lên trên thiên hạ.
Phô bày toàn bộ con người mình trước mặt thiên hạ, như muốn “giỡn mặt: thiên hạ. “đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng” -Nguyễn Công Trứ; “Thiên tiên ở lại, trích tiên xuống”- Tản Đà
Coi trời, tiên, bụt, như con người, nên có cách nói giao tiếp như con người.
-Khác nhau:
+Cái “ngông”của Tản Đà tự do, phóng túng hơn, không vướng bận về “ nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung” như Nguyễn Công Trứ.
+Tản Đà khẳng định cái tài thuộc lĩnh vực văn chương; Nguyễn Công Trứ muốn “ngất ngưởng” vượt lên trên thiên hạ, muốn hoà mình vào triết lí vô vi trong cách sống coi thường danh lợi, được, mất, khen, chê trong cuộc đời.
Về Đầu Trang Go down
 
Hầu trời ( Tản Đà )
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
๑๑۩۞۩๑๑.:: wWw.11a12phuongson.Tk vô đối ๑๑۩۞۩๑๑ :: Diễn Đàn :: Góc Học Tập :: Văn Học-
Chuyển đến